POKEMON – BIẾN THỂ MÀU SẮC VÀ HÌNH DẠNG

BIẾN THỂ POKEMON LÀ GÌ?

Biến thể Pokemon là cách gọi chung các Pokemon có màu sắc, hình dạng, hoặc kích thước khác biệt so với thông thường. Bên dưới đây là tổng hợp các trường hợp được ghi nhận là các biến thể Pokemon, chủ yếu là các bằng chứng đến từ Pokemon Anime.

1. Pokemon Sắc Hiếm

Pokemon Sắc Hiếm (Shiny Pokemon/ Rare Pokemon) là những Pokemon có màu sắc khác biệt so với thông thường và đặc biệt khan hiếm, được ghi nhận cụ thể trong các bản game Pokemon chính thống. Tỷ lệ để bắt gặp một Pokemon Sắc Hiếm trong tự nhiên chỉ khoảng 1/4096.

Shiny Noctowl anime

Noctowl Sắc Hiếm.

Noctowl anime

Noctowl bình thường.

Shiny Shuckle anime

Shuckle Sắc Hiếm.

Shuckle anime

Shuckle bình thường.

Shiny Magneton anime

Magneton Sắc Hiếm.

Magneton anime

Magneton bình thường.

Shiny Swellow anime

Swellow Sắc Hiếm.

Swellow anime

Swellow bình thường.

Shiny Magikarp anime

Magikarp Sắc Hiếm.

Magikarp anime

Magikarp bình thường.

Shiny Donphan anime

Donphan Sắc Hiếm.

Donphan anime

Donphan bình thường.

Shiny Dustox anime

Dustox Sắc Hiếm.

Dustox anime

Dustox bình thường.

Shiny Pichu anime

Pichu Sắc Hiếm.

Pichu anime

Pichu bình thường.

Shiny Ditto anime

Ditto Sắc Hiếm.

Ditto anime

Ditto bình thường.

Shiny Raikou anime

Raikou Sắc Hiếm.

Raikou anime

Raikou bình thường.

Shiny Entei anime

Entei Sắc Hiếm.

Entei anime

Entei bình thường.

Shiny Suicune anime

Suicune Sắc Hiếm.

Suicune anime

Suicune bình thường.

Shiny Ariados anime

Ariados Sắc Hiếm.

Ariados anime

Ariados bình thường.

Shiny Hydreigon anime

Hydreigon Sắc Hiếm.

Hydreigon anime

Hydreigon bình thường.

Shiny Golurk anime

Golurk Sắc Hiếm.

Golurk anime

Golurk bình thường.

Shiny Onix anime

Onix Sắc Hiếm.

Onix anime

Onix bình thường.

Shiny Genesect anime

Genesect Sắc Hiếm.

Genesect anime

Genesect bình thường.

Shiny Druddigon anime

Druddigon Sắc Hiếm.

Druddigon anime

Druddigon bình thường.

Shiny Metagross anime

Metagross Sắc Hiếm.

Shiny Mega Metagross anime

Mega Metagross Sắc Hiếm.

Metagross anime

Metagross bình thường.

Mega Metagross anime

Mega Metagross bình thường.

Shiny Hawlucha anime

Hawlucha Sắc Hiếm.

Hawlucha anime

Hawlucha bình thường.

Shiny Rayquaza anime

Rayquaza Sắc Hiếm.

Shiny Mega Rayquaza anime

Mega Rayquaza Sắc Hiếm.

Rayquaza anime

Rayquaza bình thường.

Mega Rayquaza anime

Mega Rayquaza bình thường.

Shiny Dragonair anime

Dragonair Sắc Hiếm.

Dragonair anime

Dragonair bình thường.

Shiny Phantump anime

Phantump Sắc Hiếm.

Phantump anime

Phantump bình thường.

Shiny Gengar anime

Gengar Sắc Hiếm.

Shiny Mega Gengar anime

Mega Gengar Sắc Hiếm.

Gengar anime

Gengar bình thường.

Mega Gengar anime

Mega Gengar bình thường.

Shiny Gardevoir anime

Gardevoir Sắc Hiếm.

Shiny Mega Gardevoir anime

Mega Gardevoir Sắc Hiếm.

Gardevoir anime

Gardevoir bình thường.

Mega Gardevoir anime

Mega Gardevoir bình thường.

Shiny Gyarados anime

Gyarados Sắc Hiếm.

Shiny Mega Gyarados anime

Mega Gyarados Sắc Hiếm.

Gyarados anime

Gyarados bình thường.

Mega Gyarados anime

Mega Gyarados bình thường.

Shiny Charjabug anime

Charjabug Sắc Hiếm.

Shiny Vikavolt anime

Vikavolt Sắc Hiếm.

Charjabug anime

Charjabug bình thường.

Vikavolt anime

Vikavolt bình thường.

Shiny Mimikyu anime

Mimikyu Sắc Hiếm.

Mimikyu anime

Mimikyu bình thường.

Shiny Pikachu anime

Pikachu Sắc Hiếm.

Pikachu anime

Pikachu bình thường.

Shiny Tapu Koko anime

Tapu Koko Sắc Hiếm.

Tapu Koko anime

Tapu Koko bình thường.

Shiny Magearna anime

Magearna Sắc Hiếm.

Magearna anime

Magearna bình thường.

Shiny Guzzlord anime

Guzzlord Sắc Hiếm.

Guzzlord anime

Guzzlord bình thường.

Shiny Psyduck anime

Psyduck Sắc Hiếm.

Psyduck anime

Psyduck bình thường.

Shiny Swinub anime

Swinub Sắc Hiếm.

Swinub anime

Swinub bình thường.

Shiny Slakoth anime

Slakoth Sắc Hiếm.

Slakoth anime

Slakoth bình thường.

Shiny Bagon anime

Bagon Sắc Hiếm.

Bagon anime

Bagon bình thường.

Shiny Celebi anime

Celebi Sắc Hiếm.

Celebi anime

Celebi bình thường.

Shiny Larvesta anime

Larvesta Sắc Hiếm.

Shiny Volcarona anime

Volcarona Sắc Hiếm.

Larvesta anime

Larvesta bình thường.

Volcarona anime

Volcarona bình thường.

Shiny Voltorb anime

Voltorb Sắc Hiếm.

Voltorb anime

Voltorb bình thường.

2. Biến thể về màu sắc

Bên dưới đây là các biến thể về màu sắc, nhưng không phải Pokemon Sắc Hiếm. Thông thường do điều kiện sống của môi trường hoặc do có sự can thiệp công nghệ của con người đã dẫn đến biến thể này.

Pink Butterfree

Butterfree màu hồng.

Butterfree màu hồng là Pokemon đầu tiên có biến thể màu sắc mà không phải Pokemon Sắc Hiếm xuất hiện trên anime. Nó là một con cái, Butterfree của Satoshi (Ash Ketchum) đã phải lòng nó ngay lần gặp đầu tiên. Mặc dù ban đầu nó từ chối tình cảm, nhưng sau khi chứng kiến sự dũng cảm của Butterfree đực này, nó đã chấp nhận ghép đôi.

Pink Venonat Weedle Caterpie Mankey Primeape

Venonat, Weedle, Caterpie, Mankey và Primeape màu hồng.

Pink Rhyhorn

Rhyhorn màu hồng.

Pink Primeape Exeggutor Rhydon Mankey Weepinbell Vileplume

Primeape, Exeggutor, Rhydon, Mankey, Weepinbell và Vileplume màu hồng.

Pink Pikachu

Pikachu màu hồng.

Pink Pidgey

Pidgey màu hồng.

Pink Pidgeotto Electabuzz Rattata Bellsprout

Pidgeotto, Electabuzz, Rattata và Bellsprout màu hồng.

Pink Paras Diglett

Paras và Diglett màu hồng.

Pink Nidoking Nidoran

Nidoking và Nidoran màu hồng.

Pink Geodude Scyther Venonat

Geodude, Scyther và Venonat màu hồng.

Pink Arbok Koffing

Arbok và Koffing màu hồng.

Pink Dodrio

Dodrio màu hồng.

Tất cả các Pokemon sống ở Đảo Hồng (Pinkan Island) đều có màu hồng do chế độ ăn của chúng chủ yếu là những Quả Hồng (Pinkan Berry) có sẵn trên đảo. Pikachu của Satoshi cũng chuyển sang màu hồng ngay lập tức sau khi nó ăn phải một Quả Hồng. Tuy nhiên, nếu không còn duy trì chế độ ăn uống này, màu sắc của các Pokemon sẽ trở lại bình thường.

Variant Weedle

Weedle màu xanh lá cây.

Variant Marill Breloom Shroomish anime

Marill màu xanh dương nhạt, Breloom màu xanh lam, và Shroomish đốm trắng.

Đây là các trường hợp Pokemon có màu sắc khác lạ được thấy thoáng qua ở một số phân cảnh, nhưng dường như đây chỉ là một lỗi tô màu, do các phân cảnh này cũng chỉ là lướt nhanh và không quan trọng, có thể các họa sĩ đã tô màu quá vội.

Mirage Mewtwo

Mewtwo Ảo Tưởng.

Mirage Mew

Mew Ảo Tưởng.

Mirage Magnemite

Magnemite Ảo Tưởng.

Mirage Machoke Mightyena

Machoke và Mightyena Ảo Tưởng.

Mirage Machamp Houndoom

Machamp và Houndoom Ảo Tưởng.

Mirage Entei

Entei Ảo Tưởng.

Mirage Articuno Zapdos

Articuno và Zapdos Ảo Tưởng.

Mirage Armaldo Omastar

Armaldo và Omastar Ảo Tưởng.

Mirage Aggron

Aggron Ảo Tưởng.

Mirage Aerodactyl

Aerodactyl Ảo Tượng.

Mirage Omastar Kabutops

Omastar và Kabutops Ảo Tưởng.

Mirage Absol

Absol Ảo Tưởng.

Mirage Ursaring

Ursaring Ảo Tưởng.

Pokemon Ảo Tưởng (Mirage Pokemon) là các Pokemon tồn tại dưới dạng hình ảnh 3 chiều. Được tạo ra bởi hệ thống Pokemon Ảo Tưởng (Pokemon Mirage System) của Tiến sĩ Yungu (Dr. Yung). Các Pokemon này có thể được lưu trữ trong hệ thống dưới dạng dữ liệu, giống như cách Pokemon được lưu trữ trong Poke Ball vậy. Mặc dù chỉ là hình ảnh 3 chiều, nhưng các Pokemon Ảo Tưởng hoàn toàn có thể tác động trực tiếp đến thế giới thực, và có khả năng sử dụng được tất cả Chiêu thức (Move) mà nó có sẵn dữ liệu, ngay cả những chiêu thức đáng lý ra nó không thể học được nếu là một Pokemon bình thường. Mew Ảo Tưởng là Pokemon duy nhất được biết đến là có ý thức riêng, không chịu phải sự điều khiển của hệ thống.

Valencian Raticate

Raticate màu đỏ.

Valencian Vileplume

Vileplume hoa màu cam.

Valencian Weepinbell

Weepinbell màu nâu.

Valencian Nidoran

Nidoran♀ màu xanh lam đậm.

Valencian Paras

Paras màu đỏ đậm.

Valencian Butterfree

Butterfree cánh màu vàng kem.

Các Pokemon biến thể màu sắc xuất hiện ở Đảo Cam Đắng (Valencia Island) là ý tưởng tiền thân cho các Pokemon có Hình thái khu vực (Regional form) sau này. Nơi đây là quê hương của Giáo sư Uchikido (Professor Ivy) và cũng nơi bà đặt phòng thí nghiệm nghiên cứu về sự thay đổi hình dạng và màu sắc của một số Pokemon khi điều kiện sống tách biệt.

Snowmen Snorlax

Snorlax Tuyết Trắng.

Snorlax Tuyết Trắng là kết quả của quá trình thích nghi với khí hậu lạnh giá của Snorlax.

Sudowoodo gold

Sudowoodo Hoàng Kim.

Sudowoodo Hoàng Kim thuộc sở hữu của Kinya (Keenan). Là kết quả của cuộc thí nghiệm biến đổi cơ thể Sudowoodo nhằm cải thiện khả năng chống lại các đòn tấn công hệ Nước của nó. Mặc dù thí nghiệm thành công, nhưng vô tình đã làm cho Sudowoodo trở nên hoảng sợ và bỏ trốn vào rừng, khiến tình cảm giữa họ bị hủy hoại. Mãi sau khi chứng kiến Kinya cố gắng bảo vệ nó trước cuộc tấn công của đội Hỏa Tiễn (Team Rocket). Nó đã đồng ý tin tưởng Kinya một lần nữa để biến đổi cơ thể trở về bình thường.

Variant Lapras

Lapras màu xanh lam nhạt.

Lapras này có thân màu xanh lam nhạt hơn và các đốm màu xanh lam đậm hơn so với những con Lapras bình thường. Và nó cũng là mẹ của Lapras thuộc sở hữu của Satoshi.

Red Gyarados

Gyarados Đỏ.

Mặc dù Gyarados có màu đỏ này trùng với màu của Gyarados Sắc Hiếm nhưng nguồn gốc của nó không phải tiến hóa từ một Magikarp Sắc Hiếm. Mà nó là kết quả của Dự án R (Project R) của Đội Hỏa Tiễn – một dự án nhằm mục đích tiến hóa nhân tạo cho các Pokemon. Họ đã tiến hóa cưỡng bức một con Magikarp bình thường, khiến Gyarados vẫn còn giữ lại màu đỏ vốn có của Magikarp.

Crystal Onix

Onix Pha Lê.

Một Onix có cơ thể hoàn toàn bằng pha lê được tìm thấy trong một hang động tại đảo Ponkan (Sunburst Island). Nó không hề bị khắc chế bởi các đòn hệ Nước, mà ngược lại, nó bị khắc chế bởi các đòn hệ Lửa. Và đây có thể là ý tưởng tiền thân cho Kết Tinh Hóa (Terastallization) sau này.

Variant Sunflora

Sunflora da rám nắng.

Một Sunflora bị rám nắng da mặt do phơi nắng quá lâu dưới ánh Mặt Trời.

Variant Smeargle

Smeargle đuôi màu đỏ và Smeargle đuôi màu xanh lam.

Người ta nói rằng, màu đuôi của Smeargle sẽ khác nhau tùy thuộc vào tâm trạng của nó.

Surfing Pikachu

Pikachu lướt sóng.

Pikachu biết lướt sóng này là một con Pikachu già đã sống hơn 20 năm tại Quần Đảo Sinh Đôi (Seafoam Islands), thuộc sở hữu của ông Binsento (Victor). Nó có đôi mắt màu xanh lam và có khả năng cảm nhận được thủy triều một cách chính xác bằng năng lực tâm linh của mình.

Green-crystal Deoxys

Tinh Thể Deoxys xanh lá cây.

Green-crystal Deoxys

Deoxys tinh thể xanh lá cây.

Deoxys's clones

Deoxys màu xám.

Một Deoxys mang tinh thể màu xanh lá cây thay vì màu đỏ như bình thường. Đồng thời đường vân trên khuôn mặt nó cũng màu xanh lá cây thay vì màu tím.

Deoxys có thể tạo ra các bản sao hiện hữu màu tím. Tuy nhiên, các bản sao này chỉ có thể tác động vật lý một cách đơn thuần chứ không có khả năng sử dụng các chiêu thức.

Zygarde blue Core

Lõi Zygarde xanh lam.

Zygarde blue Core

Zygarde lõi xanh lam 10%.

Một Lõi Zygarde (Zygarde Core) có màu xanh lam thay vì màu đỏ như thông thường. Được Đội Hỏa Quang (Team Flare) đặt biệt danh là Z2 (với Z1 có lõi màu đỏ). Khi nó tập hợp các Tế bào Zygarde (Zygarde Cell) thành hình dạng Zygarde 10%, lõi màu xanh lam của nó vẫn còn được nhìn thấy ở dưới cổ áo.

Ho-oh gold

Ho-oh vàng.

Shigeki Morimoto xác nhận rằng, ban đầu thế hệ I có đến 190 Pokemon, sau đó rút ngắn lại thành 151. Các Pokemon còn lại sẽ dự kiến ra mắt vào thế hệ II. Vào thời điểm đó, Ho-oh vẫn chưa được ra mắt, thế nên để tăng thêm tính bí ẩn, các họa sĩ đã vẽ một Ho-oh với toàn thân màu vàng thay vì tô màu chi tiết cho nó.

Primal Dialga

Dialga Nguyên Thủy.

Dialga Nguyên Thủy (Primal Dialga) là một Pokemon được ra mắt chính thức trong bản game Pokemon Mystery Dungeon. Dialga Nguyên Thủy thực chất là một Dialga bình thường sau khi mất kiểm soát khả năng điều khiển thời gian do Tháp Thời Gian (Temporal Tower) sụp đổ. Ở dạng này, nó hoàn toàn nổi điên và hành động theo bản năng thuần túy, chỉ tìm cách tự bảo vệ và làm bất cứ điều gì cần thiết để ngăn cản mọi nỗ lực nhằm thay đổi quá khứ.

Variant Kecleon

Kecleon màu tím.

Một Kecleon có cơ thể màu tím thay vì màu xanh lục, thuộc sở hữu của Eru (Madiso).

Variant Meltan

Meltan đai ốc vàng đậm.

Một Meltan thuộc sở hữu của Satoshi có đai ốc lục giác màu vàng đậm hơn so với thông thường. Lý do là đội Hỏa Tiễn đã từng sử dụng đai ốc của nó vào một cổ máy khiến đai ốc bị bào mòn đi chút ít.

Variant Mareanie

Mareanie xúc tu tím.

Variant Toxapex

Toxapex xúc tu tím.

Image Box text

Một Mareanie/ Toxapex có xúc tu màu tím thay vì màu xanh lam nhạt như bình thường. Nó từng là “người yêu cũ” của Mareanie – Pokemon của Kojiroo (James).

Variant Gengar

Gengar màu tím nhạt.

Một Gengar có màu tím nhạt thay vì màu tím đậm như thông thường, nó thuộc sở hữu của Satoshi.

Variant Dwebble

Dwebble màu xám nhạt.

Một Dwebble có vỏ đá màu xám nhạt thay vì màu xám như thông thường. Tuy nhiên, loài Dwebble được cho là có vỏ đá với nhiều màu sắc, hình dạng và kích cỡ khác nhau. Tùy thuộc vào loại đá mà nó chọn làm vỏ. Ví dụ, lớp vỏ màu xám nhạt này là một loại đá nhẹ hơn bình thường, khiến tốc độ của Dwebble cũng nhanh hơn bình thường.

Variant Passimian

Passimian màu đỏ.

Những con Passimian có hoa văn và lá trên đầu màu đỏ thay vì màu xanh lá cây như thông thường, chúng được tìm thấy ở Đảo Hồng (Akala Island).

3. Biến thể về hình dạng

Cũng giống với biến thể về màu sắc. Nhưng nó còn có thay đổi thêm về các chi tiết, hoa văn trên cơ thể, thậm chí là biến đổi hoàn toàn so với hình dạng ban đầu của chúng.

Rayquaza Illusion

Rayquaza ảo ảnh.

Pokemon này là sự kết hợp giữa Mismagius và Rayquaza ảo ảnh (cũng do Mismagius tạo ra). Mặc dù màu sắc của nó thì rất giống với một Rayquaza Sắc Hiếm. Nhưng ngoại hình thì khác, nó có 3 đốm đỏ ở cổ tương ứng với 3 đốm đỏ trong chiếc áo của Mismagius. Các vây đầu và đuôi của Rayquaza ảo ảnh cũng có phần rách rưới như áo choàng của Mismagius.

Venustoise

Venustoise.

Một Gastly với khả năng tạo ra những ảo ảnh nhưng có thể tác động vào thế giới thực, đã tạo ra một loài Pokemon lai giữa Blastoise và Venusaur, được gọi là Venustoise (Fushigikkusu).

Charmandertwo Squirtletwo Bulbasaurtwo

Charmandertwo, Squirtletwo, và Bulbasaurtwo.

Charizardtwo

Charizardtwo.

Venusaurtwo

Venusaurtwo.

Blastoisetwo

Blastoisetwo.

Pikachutwo

Pikachutwo.

Tất cả các Pokemon này đều là kết quả của quá trình nhân bản trong bộ phim điện ảnh thứ nhất: “Mewtwo phục thù” (Mewtwo Strikes Back). Bao gồm Charmandertwo, Squirtletwo, Bulbasaurtwo, Charizardtwo, Venusaurtwo, và Blastoisetwo tương ứng với vết bớt màu đỏ đậm, xanh lam đậm, nâu đậm, đỏ đậm, trắng, và nâu đậm. Riêng Pikachutwo có phần lông đen trên tai giống với Pichu.

Porygon Zero

Porygon Zero.

Variant Porygon

Porygon cây giáo.

Variant Porygon

Porygon chiếc khiên và Porygon cây búa.

Porygon Conversion

Porygon Weezing.

Một Porygon nguyên mẫu được tạo ra bởi tiến sĩ Akihabara (Dr. Akihabara), nó được đánh số “0” trên trán và được gọi là Porygon zero. Sau khi Porygon zero bị đánh cắp bởi đội Hỏa Tiễn. Tiến sĩ Akihabara tiếp tục tạo ra một Porygon khác từ nguyên mẫu của nó và cử nhóm Satoshi đi lấy lại Porygon zero từ tay đội Hỏa Tiễn. Cuối cùng trận đánh giữa họ đã làm phá hủy cả hệ thống. May mắn là tất cả mọi người đều đã thoát ra máy tính kịp thời, trừ Porygon zero.

Porygon có thể biến đổi thành các hình thù, công cụ và vũ khí khác nhau thông qua chiêu Mài Góc (Sharpen) hoặc có thể thay đổi bề mặt cơ thể giống với đối thủ thông qua chiêu Biến Tính (Conversion).

Voltorb Ditto

Voltorb Ditto.

Meowth Ditto

Meowth Ditto.

Pikachu Ditto

Pikachu Ditto.

Machoke Ditto

Machoke Ditto.

Bulbasaur Ditto

Bulbasaur Ditto.

Một số Ditto khi biến thành một Pokemon khác thông qua chiêu Biến Hình (Transform), chúng thường tạo ra một dạng biến thể nhè nhẹ của Pokemon đó thay vì một bản sao chính xác, đó là biểu cảm trống rỗng, đôi mắt tròn xoe. Lý do là vì Ditto không có khả năng nhớ rõ khuôn mặt, thế nên nếu Ditto có kinh nghiệm biến hình càng nhiều thì bản sao của nó càng chính xác.

Variant Lapras

Lapras đốm xanh lam đậm.

Một Lapras có vết đốm lớn màu xanh lam đậm trên khuôn mặt. Nó là cựu thủ lĩnh của đàn Lapras, sau khi Satoshi cho Lapras của mình đoàn tụ với đàn, nó đã bàn giao vị trí thủ lĩnh cho Lapras của Satoshi.

Variant Spinda

Biến thể Spinda.

Theo Pokedex, tỷ lệ để có hai Spinda có cùng hoa văn là dưới một phần bốn tỷ. Vì vậy có thể nói, hoa văn của các Spinda đang sinh sống trong thế giới Pokemon gần như khác nhau hoàn toàn.

Variant Wooper

Wooper hoa văn trái tim.

Variant Bulbasaur

Bulbasaur hoa văn trái tim.

Một Wooper và Bulbasaur có hoa văn không giống với những cá thể thông thường. Mà nó có hoa văn hình trái tim trông rất đặc biệt và dễ phân biệt.

Variant Pikachu

Biến thể Pikachu.

Variant Eevee

Biến thể Eevee.

Pikachu và Eeevee là 2 Pokemon được ghi nhận với nhiều mẫu lông khác nhau trong Pokemon anime.

Variant Carbink

Carbink và các biến thể.

Có 3 biến thể Carbink (3 Carbink bên phải) xuất hiện độc quyền trong bộ phim điện ảnh thứ 17 “Sự hủy diệt từ chiếc kén và Diancie” (Diancie and the Cocoon of Destruction). Cả 4 đều là “người hầu” của Diancie, với biệt danh lần lượt là Bort, Allotrope, Merrick, và Dace. Với Dace là anh cả trong bộ tứ.

Jigglypuff god

Jigglypuff Cổ Đại.

Gengar god

Gengar Cổ Đại.

Alakazam god

Alakazam Cổ Đại.

Đây là các Pokemon cổ đại của nền văn minh Pokemopolis. Chúng có kích thước khổng lồ cùng với những dấu vết giống như hình xăm trên cơ thể. Bao gồm Jigglypuff, Gengar và Alakazam. Được phong ấn lần lượt trong các dụng cụ cổ đại: Chiếc chuông, quả tạ, và cái thìa.

Ashchu

Satochu.

Một tai nạn hi hữu của một phù thủy tên là Ririi (Lily). Cô tuyên bố có thể tạo ra một câu thần chú cho phép nhà huấn luyện đọc được suy nghĩ của Pokemon. Để thực hiện được câu thần chú cần nguyên liệu bao gồm: Phấn Gây Tê (Stun Spore) của Parasect, móng vuốt của Meowth, nước mắt của Aipom. Sau khi có đủ nguyên liệu, một trục trặc trong câu thần chú của cô đã vô tình biến Satoshi thành Pikachu (gọi là Ashachu/ Satochu). Mặc dù Pikachu vẫn giữ một số đặc điểm Satoshi, như kiểu tóc, đôi mắt và giọng nói. Và đây có thể là ý tưởng tiền thân cho Pikachu Đội Nón (Pikachu in a cap) sau này.

Blue Orb Pikachu

Pikachu bị chiếm hữu.

Pikachu của Satoshi bị chiếm hữu bởi Bảo Ngọc Xanh Chàm (Blue Orb) – thứ điều khiển Groudon. Khi bị các Bảo Ngọc chiếm hữu cơ thể, người bị chiếm hữu có thể điều khiển các Pokemon Huyền Thoại tương ứng. Tuy nhiên, khi các Pokemon Huyền Thoại tương ứng bị đánh bại, các Bảo Ngọc sẽ tự động tách ra khỏi cơ thể người bị chiếm hữu.

Meta Groudon

Groudon Biến Đổi.

Groudon Biến Đổi (Meta Groudon) là kết quả cuộc thí nghiệm của cựu thành viên đội Hỏa Nham (Team Magma) – Batoraa (Butler), xuất hiện trong bộ phim điện ảnh thứ 6 “Bảy Đêm Cùng Ngôi Sao Nguyện Ước Jirachi” (Jirachi: Wish Maker). Sau khi anh ta cố gắng hồi sinh Groudon từ hóa thạch cổ đại bằng năng lượng của Sao chổi Thiên niên kỷ (Millennium Comet), với Jirachi là vật trung gian để truyền năng lượng từ Sao chổi sang cổ máy hồi sinh hóa thạch. Thật không may, Groudon Biến Đổi là một Groudon tà ác thuần túy, sau khi thức dậy nó bắt đầu hấp thụ năng lượng từ Trái Đất bao gồm các sinh vật sống như Pokemon, con người và cả thực vật. Cuối cùng, nó đã bị đánh tan bởi chiêu thức Ước Nguyện Diệt Vong (Doom Desire) của Jirachi.

Armored Mewtwo

Mewtwo Bọc Thép.

Sakaki (Giovanni) – thủ lĩnh đội Hỏa Tiễn, đã đề nghị Mewtwo mặc bộ giáp mà ông chế tạo với công dụng tập trung sức mạnh. Đổi lại, Mewtwo phải giúp ông đánh bại các huấn luyện viên thách đấu tại Hội quán Tokiwa (Viridian Gym), cũng như giúp họ bắt và đánh cắp các Pokemon khác. Mewtwo đồng ý, nhưng sau đó nó nhận ra rằng Sakaki không xem nó là đối tác, mà chỉ xem nó như là một công cụ. Cuối cùng, nó đã phá hủy căn cứ đội Hỏa Tiễn và trốn thoát.

Variant Dwebble

Dwebble vỏ đá lớn.

Như đã biết, loài Dwebble tự chọn cho mình loại vỏ đá phù hợp với cơ thể của nó, bao gồm cả trường hợp nó chồng 2 vỏ đá lên nhau sau khi giành được từ một con Dwebble khác, nhằm mục đích giúp cho vỏ đá nó vững chắc hơn, đồng thời sức tấn công cũng mạnh hơn.

Spiky-eared Pichu

Pichu Tai Răng Cưa.

Pichu Tai Răng Cưa (Spiky-eared Pichu) là biến thể chính thức của Pichu được ra mắt trong bản game HeartGold và SoulSilver. Sau đó, nó cũng được ra mắt trong bộ phim điện ảnh thứ 12: “Arceus chinh phục khoảng không thời gian” (Arceus and the Jewel of Life). Nó được xem là Pokemon đã du hành thời gian cùng với Celebi từ quá khứ đến hiện tại. Đó là lý do nó không thể tiến hóa, cũng như không thể chuyển đổi sang bất kỳ bản game nào khác.

4. Biến thể về kích thước

Bên dưới đây là các biến thể về kích thước. Chủ yếu là các Pokemon có kích thước lớn hoặc bé một cách bất thường.

Lưu ý: Không xét đến các nhóm Pokemon to lớn chính thức như: Pokemon Tộc Trưởng (Totem Pokemon), Pokemon Đầu Đàn (Alpha Pokemon), Pokemon Cao Quý (Noble Pokemon), Pokemon Thú Cưỡi (Ride Pokemon), Pokemon Ngoại Cỡ (Titan Pokemon), Pokemon Phát Quang (Illumina Pokemon), Cực Đại Hóa (Dynamax), Cự Cực Hóa (Gigantamax). Các nhóm Pokemon này sẽ được đề cập ở bài Phân loại Pokemon.

Giant Magikarp

Magikarp lớn.

Một Magikarp tiêu chuẩn chỉ cao 0.9m.

Giant Kingler

Krabby lớn.

Một Krabby tiêu chuẩn chỉ cao 0.4m.

Giant Magcargo

Magcargo lớn.

Một Magcargo tiêu chuẩn chỉ cao 0.8m

Giant Bulbasaur

Bulbasaur lớn.

Một Bulbasaur tiêu chuẩn chỉ cao 0.7m.

Giant Kangaskhan

Kangaskhan lớn.

Một Kangaskhan tiêu chuẩn chỉ cao 2.2m.

Giant Sunflora

Sunflora lớn.

Một Sunflora tiêu chuẩn chỉ cao 0.8m.

Giant Charizard

Charizard lớn.

Một Charizard tiêu chuẩn chỉ cao 1.7m.

Giant Staraptor

Staraptor lớn.

Một Staraptor tiêu chuẩn chỉ cao 1.2m.

Giant Golurk

Golurk lớn.

Một Golurk tiêu chuẩn chỉ cao 2.8m.

Giant Gengar

Gengar lớn.

Một Gengar tiêu chuẩn chỉ cao 1.5m.

Giant Whiscash

Whiscash lớn.

Một Whiscash tiêu chuẩn chỉ cao 0.9m.

Giant Anorith

Anorith lớn.

Một Anorith tiêu chuẩn chỉ dài 0.7m

Giant Guzzlord

Guzzlord Sắc Hiếm lớn.

Một Guzzlord tiêu chuẩn chỉ cao 5.5m.

Giant Onix

Onix lớn.

Một Onix tiêu chuẩn chỉ dài 8.8m.

Giant Rhydon

Rhydon lớn.

Marill màu xanh dương nhạt, Breloom màu xanh lam, và Shroomish đốm trắng.

Giant Pidgeot

Pidgeot lớn.

Một Pidgeot tiêu chuẩn chỉ cao 1.5m.

Giant Mantine

Mantine lớn.

Một Mantine tiêu chuẩn chỉ dài 2.1m.

Giant Skarmory

Skarmory lớn.

Một Skarmory tiêu chuẩn chỉ cao 1.7m.

Giant Sandshrew

Sandshrew lớn.

Giant Sandslash

Sandslash lớn.

Một Sandshrew tiêu chuẩn chỉ cao 0.7m. Một Sandslash tiêu chuẩn chỉ cao 1.2m.

Giant Goldeen

Goldeen lớn.

Một Goldeen tiêu chuẩn chỉ cao 0.6m.

Giant Tentacruel

Tentacruel khổng lồ.

Một sự việc hi hữu khi đội Hỏa Tiễn sử dụng “giấm đặc hiệu gia truyền” với mục đích là đuổi các con Tentacool đi bằng cách đổ nó xuống biển. Tuy nhiên, vô tình thùng giấm rơi trúng một Tentacool gần đó, và dưới tác dụng của giấm, Tentacool ngay lập tức tiến hóa thành một Tentacruel khổng lồ.

Giant Dragonite

Dragonite khổng lồ.

Một Dragonite khổng lồ nổi lên giữa lòng đại dương, gần ngọn hải đăng – nơi Masaki (Bill) nghiên cứu. Sau khi bị đội Hỏa Tiễn tấn công, nó đã đánh bay đội Hỏa Tiễn, sau đó lại biến mất giữa đại dương.

Giant Arboliva

Arboliva khổng lồ.

100 năm trước, Arboliva khổng lồ là 1 trong 6 Pokemon của nhà thám hiểm cổ đại Rushiasu (Lucius). Chúng được gọi chung là 6 anh hùng. Vì một lý do chưa thể giải thích được, Poke Ball của Rushiasu đã được rải rác ở khắp nơi trên thế giới.

Giant Claydol

Claydol khổng lồ.

Một Claydol khổng lồ được giải phóng sau khi đội Hỏa Tiễn phá hủy một Poke Ball bằng đá khổng lồ – vật chứa Claydol. Cuối cùng, nhóm Satoshi đã thành công phong ấn nó trở lại vào một Poke Ball bằng đá dự phòng khác theo lời tiên tri của người xưa để lại.

Giant Shieldon

Shieldon khổng lồ.

Một Shieldon khổng lồ mới hồi sinh gần đây đã được trưng bày tại bảo tàng thành phố Nibi (Pewter City).

Giant Caterpie

Caterpie khổng lồ.

Giant Metapod

Metapod khổng lồ.

Giant Butterfree

Butterfree khổng lồ.

Image Box text

Giant Cacnea

Cacnea khổng lồ.

Dustox khổng lồ.

Các Pokemon hóa khổng lồ sau khi ăn phải “Kẹo Bí Ẩn Hoàn Hảo” (Mystery Candy ) – một phát minh chưa được thử nghiệm của tiến sĩ Goodon (Dr. Gordon). Tuy nhiên, hiệu lực của Kẹo Bí Ẩn Hoàn Hảo chỉ kéo dài trong một khoảng thời gian nhất định.

Giant Gulpin Treecko

Gulpin và Treecko khổng lồ.

Đứng trước nguy cơ thị trấn bị tàn phá bởi Gulpin. Giáo Sư Shakujii (Professor Jacuzzi) với phát minh “Pháo hạt ánh sáng” đã biến các con Gulpin thành năng lượng dạng hạt, sau đó giải phóng chúng ra khỏi thành phố dưới dạng thực thể. Trong lần bắn cuối cùng, ông vô tình bắn trúng một con Gulpin và Treecko của Satoshi cùng một lúc. Cuộc chiến giữa chúng xảy ra trong hệ thống khiến cổ máy bị quá tải và phải nổ. Ngay sau đó, cả Gulpin và Treecko cùng hấp thụ năng lượng từ cổ máy và hóa khổng lồ. Tuy nhiên, khi sử dụng hết năng lượng, chúng sẽ trở lại trạng thái bình thường. Và đây có thể là ý tưởng tiền thân cho cơ chế Cực Đại Hóa và Cự Cực Hóa sau này.

Giant Meowth

Meowth khổng lồ.

Giant Marshtomp

Marshtomp khổng lồ.

Một bộ phim nói về cuộc chiến chống lại “quái vật” Meowth của “người anh hùng” Marshtomp được Masato (Max) xem khi còn nhỏ.

Giant Croagunk Pikachu Piplup

Croagunk, Pikachu, Piplup khổng lồ.

Đây là những ảo ảnh mà Mismagius đã tạo ra. Cụ thể là nó hiện thực hóa ước mơ của con người và Pokemon trong một giấc mơ.

Giant Zoroark

Zoroark khổng lồ.

Giant Heatmor

Heatmor khổng lồ.

Giant Meowth

Meowth khổng lồ.

Đây là những ảo ảnh mà Zoroark tạo ra. Khác với Mismagius, các ảo ảnh này được nhìn thấy trong thế giới thực thay vì giấc mơ.

Giant Togedemaru

Togedemaru khổng lồ.

Zaoboo với phát minh “máy nén siêu cấp“, hoạt động như một Poke Ball. Nhưng thay vì với chức năng thu nhỏ vật thể, nó gặp trục trặc, biến vật thể trở nên lớn hơn.

Onix Ditto

Onix Ditto.

Ursaring Ditto

Ursaring Ditto.

Arbok Ditto

Arbok Ditto.

Một số Ditto mặc dù có thể tạo ra một bản sao chính xác thông qua chiêu Biến Hình. Tuy nhiên, nếu chưa đủ kinh nghiệm, đôi lúc kích thước nó biến đổi cũng không được chính xác.

Baby Nidoqueen Rhyhorn

Nidoqueen con.

Nidoqueen nhân bản (được tạo ra bởi Mewtwo) có thể sinh ra một Nidoqueen con (Baby Nidoqueen), mặc dù thực tế là Nidoqueen bình thường không thể sinh sản vi thuộc nhóm trứng Vô Sinh (No Eggs Discovered), và giả sử có sinh sản được đi nữa thì Pokemon con phải là một Nidoran♀.

Baby Mewtwo

Mewtwo con.

Thật ra đây là hình dạng của Mewtwo khi còn trong ống nghiệm. Lúc này Mewtwo còn đang trong quá trình trưởng thành và phát triển trước khi đủ điều kiện để sống ngoài ống nghiệm.

5. Hình dạng hiếm gặp.

Bên dưới đây là tổng hợp các Pokemon thông thường nhưng với hình dạng hiếm gặp trong tự nhiên.

Exeggutor four head

Exeggutor 4 đầu.

Exeggutor five head

Exeggutor 5 đầu.

Single Exeggcute

Exeggcute đơn lẻ.

Theo Pokedex, “nếu sống trong môi trường tốt sẽ giúp cho Exeggutor mọc thêm nhiều đầu“. Sau đó, một số cái đầu sẽ rụng xuống (đôi lúc bị vỡ) tạo thành những con Exeggcute đơn lẻ. Cuối cùng, các con Exeggcute đơn lẻ tập hơn thành bộ 6 – một bộ hoàn chỉnh của loài Exeggcute.

Variant Arbok

Arbok với họa tiết tấn công.

Variant Arbok

Arbok với họa tiết tốc độ.

Variant Arbok

Arbok với họa tiết bất khả xâm phạm.

Tùy vào trường hợp cụ thể, Arbok có thể thay đổi hoa văn bất cứ lúc nào để tăng một số chỉ số hoặc miễn nhiễm với một số hiệu ứng trạng thái trong trận đấu.

Single Binacle

Binacle đơn lẻ.

Binacle là một cặp Binacle đơn lẻ sống trong một tảng đá duy nhất, chúng cần hợp tác với nhau để tồn tại. Tuy nhiên, khi xảy ra tranh cãi, một trong số chúng sẽ di chuyển và tìm một tảng đá có Binacle đơn lẻ khác để sống cùng.

Single Falinks

Falinks đơn lẻ.

Giống với Exeggutor, Falinks là một tập hợp gồm 6 Falinks đơn lẻ. Trong đó, 1 cá thể Falinks lớn nhất được xem là thủ lĩnh, và 5 cá thể Falinks còn lại tuyệt đối nghe theo mệnh lệnh của nó.

Treecko old

Treecko già.

Hoothoot old

Hoothoot già.

Noctowl old

Noctowl già.

Stoutland old

Stoutland già.

Scyther old

Scyther già.

Bellsprout old

Bellsprout già.

Giống với con người, Pokemon vẫn có sinh lão bệnh tử. Kể cả những Pokemon chưa tiến hóa, quá trình lão hóa vẫn xảy ra như bình thường.

Togepi sleep

Togepi ngủ.

Sunflora sleep

Sunflora ngủ.

Sewaddle sleep

Sewaddle ngủ.

Một số Pokemon khi đi ngủ, chúng có xu hướng co cơ thể lại trông rất thú vị.

Single Magneton

Magneton tách lẻ.

Magneton có khả năng tách ra làm 3 bộ phận khi cần thiết. Tuy nhiên, 3 bộ phận này không phải là 3 cá thể Magnemite riêng biệt, vì thế lý thuyết 3 Magnemite kết hợp lại thành 1 Magneton là không chính xác,

Variant Beartic

Beartic chảy nước mũi.

Variant Ursaring

Ursaring dễ thương.

Một trường hợp hi hữu khi Cubchoo tiến hóa thành Beartic những vẫn còn giữ lại đặc điểm “chảy nước mũi” của nó. Còn trường hợp Ursaring có đôi mắt ngây thơ của Teddiursa là do nó đang dùng chiêu Bùa Mê (Charm).

Pangoro no leaves

Pangoro mất lá.

Alolan Golem no mustache

Alolan Golem mất râu.

Khi Pangoro bị mất chiếc lá trúc mà nó hay ngậm trong miệng hoặc Alolan Golem bị mất hàm râu cát sắt ở mặt sẽ khiến chúng trở nên nhút nhát và thiếu tự tin.

Venusaur's flower closed

Venusaur khép hoa.

Venusaur có một chiến thuật quen thuộc là dùng bông hoa trên lưng để nhốt lấy đối thủ. Sau đó tung đòn tất sát Tia Sáng Mặt Trời (Solar Beam) để kết thúc trận chiến.

Yamask no mask

Yamask mất mặt nạ.

Meltan no nut

Meltan mất đai ốc.

Sewaddle no leaf

Sewaddle rách lá.

Meowth no gold

Meowth mất đồng xu.

Flabébé no flower

Flabébé mất bông hoa.

Một số khoảnh khắc hiếm hoi khi Pokemon không được nhìn thấy với một bộ phận quen thuộc nào đó.

Mimikyu no rag

Mimikyu mất áo.

Mimikyu's face

Gương mặt Mimikyu.

Mimikyu luôn giấu mình dưới một tấm vải ngụy trang. Không ai biết ngoại hình thực sự của Mimikyu trông như thế nào. Có lẽ vì Mimikyu bị suy yếu khi tiếp xúc với ánh sáng mặt trời nên tấm vải che được sử dụng một cách để bảo vệ cơ thể. Nó có xu hướng sử dụng tấm vải ngụy trang mang hình dạng của Pikachu, vì nó cho rằng Pikachu luôn được mọi người yêu mến. Vậy nên, nó cũng sẽ dễ kết bạn hoặc gây thiện cảm với người khác hơn trong hình dạng của một con Pikachu.

Oddish plant

Oddish chôn mình trong đất.

Bulbasaur plant

Bubasaur chôn mình trong đất.

Ivysaur Plant

Ivysaur chôn mình trong đất.

Một số Pokemon hệ Cỏ có thể hút chất dinh dưỡng từ đất bằng cách chôn mình trong đất. Cũng như dễ dàng ngụy trang khi chúng gặp nguy hiểm.

Crown Shellder

Vương miện Shellder.

Shellder có thể tách ra khỏi đầu của Slowking mà không hề xảy ra hiện tượng thoái hóa như trường hợp của Slowbro. Pokedex nói rằng, nếu đuôi của Slowbro bị đứt, hoặc con Shellder cắn vào đuôi của nó nhả ra thì Slowbro sẽ thoái hóa thành Slowpoke.

Variant Furfrou

Furfrou hóa trang Alolan Vulpix, Alolan Ninetales, và Arceus.

Mặc dù Furfrou được biết đến là có rất nhiều hình dạng khác nhau bằng cách cắt tỉa và nhuộm lông cho nó. Tuy nhiên, trường hợp này thì….

Spoink no gem

Spoink mất ngọc.

Clamperl's gem

Clamperl tạo ngọc.

Viên ngọc trên đầu Spoink chính là viên ngọc trai mà Clamperl tạo ra. Viên ngọc này giúp Spoink khuếch đại sức mạnh siêu linh của nó. Vì vậy, nó sẽ yếu đi nếu viên ngọc trên đầu bị mất.

Paras plant Mushroom

Paras trồng nấm.

Paras thường xuyên gỡ những cây nấm trên lưng để trồng xuống những nơi có độ ẩm cao. Tuy nhiên, Paras chỉ có thể gỡ luân phiên một trong hai cây nấm trên lưng, nếu không nó sẽ rơi vào trạng thái hôn mê vô thời hạn.

Litwick no flame

Litwick tắt lửa.

Khi ngọn lửa trên đầu Litwick bắt đầu cháy sáng, chính là lúc nó đang hút đi sinh lực của các Pokemon hoặc con người gần đó để làm nguyên liệu đốt cháy. Nếu ngọn lửa tắt đi, đồng nghĩa với việc nó không hút sinh lực.

Hoothoot's leg

Cặp chân của Hoothoot.

Mặc dù Hoothoot có đầy đủ hai chân. Nhưng nó thường chỉ đứng bằng một chân, và luân phiên giữa hai chân khi mỏi với một tốc độ rất khó để có thể theo dõi bằng mắt thường.

Golem's shell

Vỏ của Golem.

Golem phát triển lớn hơn bằng cách lột da mỗi năm một lần. Lớp vỏ bị loại bỏ sau một thời gian sẽ vỡ vụn và tan vào trong đất. Những người nông dân thường thu thập vỏ của Golem để bón phân cho đất, thúc đẩy sự tăng trưởng của cây trồng.

Dwebble no shell

Dwebble không vỏ.

Crustle no shell

Crustle không vỏ.

Như đã biết, loài Dwebble hoặc Crustle tự chọn cho mình loại vỏ đá phù hợp với cơ thể của nó. Nên vỏ đá của chúng có chức năng như một nơi trú ngụ chứ không phải là bộ phận không thể thay thế hoặc dính liền với cơ thể.

Burmy no coat

Burmy không áo.

Burmy thường che phủ cơ thể của mình bằng một tấm áo choàng, giúp nó luôn giữ ấm cơ thể. Tấm áo choàng này có thể là tập hợp những chiếc lá, hoặc cát, hoặc rác thải, tùy thuộc vào môi trường mà nó sinh sống có những nguyên liệu gì. Nếu áo choàng bị rơi ra, nó sẽ làm lại một chiếc áo choàng khác ngay lập tức với những nguyên liệu gần đó. Khi Burmy tiến hóa thành Wormadam, tấm áo choàng là vĩnh viễn và không thể thay đổi được nữa.

Baby Kangaskhan

Kangaskhan con.

Kangaskhan lúc nào cũng được nhìn thấy với một bộ đôi, bao gồm một Kangaskhan mẹ và một Kangaskhan con. Một khi Kangaskhan mẹ cảm thấy xung quanh an toàn, nó sẽ thả Kangaskhan con ra ngoài chơi. Không chắc chắn rằng, liệu một Kangaskhan con có phát triển thành một Kangaskhan mẹ hay không. Nhưng khi một quả trứng Kangaskhan nở ra, nó đã có đủ một bộ đôi cả mẹ lẫn con.

Baby Celesteela

Celesteela con.

Ngày xửa ngày xưa, có một vật thể bí ẩn từ trên trời rơi xuống, một cặp vợ chồng già đã phát hiện ra thứ gì đó trông giống như một cây măng lớn, với khuôn mặt của một đứa trẻ thơ. Họ đặt tên cho sinh vật này là “Celeste” và chăm sóc nó, Tuy nhiên, khi nó lớn lên, nó khiến những cây khác xung quanh khô héo và chết đi. Điều này đã làm cho những người dân khác trong làng rất phẫn nộ và cố gắng tấn công Celeste. Trong khi đó, cặp vợ chồng già vẫn ra sức bảo vệ Celeste cho đến khi nó biến thành một con tàu lớn và bay trở lại mặt trăng, để lại một khu rừng tre tốt tươi phía bên dưới.

Applin no Apple

Applin.

Trong bản game New Pokémon Snap, hình dáng thật của Applin được tiết lộ bên trong quả táo là một sinh vật giống như con Rồng con. Phù hợp với hệ Rồng mà nó có.

Variant Deoxys

Deoxys tam giác.

Một viên thiên thạch bị phá hủy bởi Mega Rayquaza trước khi nó rơi vào Trái Đất. Bên trong thiên thạch là một Deoxys đang tồn tại dưới dạng hình chóp tam giác. Ngay sau đó, nó nhanh chóng biến đổi thành hình dạng thật của mình.

5. Pokemon không xác định.

Bên dưới đây là tổng hợp các Pokemon chưa được xác định cụ thể về hình dạng hoặc danh tính.

Unnamed Pokemon

Sinh vật nhện khổng lồ.

Một quái vật hư cấu hoặc Pokemon giống nhện, xuất hiện trong một bộ phim về Gligarman ở tập phim “Người hùng bí ẩn! Gligarman xuất hiện!” (The Superhero Secret). Tổng thể ngoại hình của nó trông như một biến thể của Beedrill.

Unnamed Pokemon

Nàng tiên bướm.

Unnamed Pokemon

Sinh vật Mặt Trời.

Một nàng tiên bướm và một sinh vật Mặt Trời chưa được biết tên được nhìn thấy trong cuốn sách “Pokemon Huyền Thoại” của cô bé Mii (Molly Hale) trong bộ phim điện ảnh thứ 3: “Đế Vương Của Tháp Pha Lê Entei” (Spell of the Unown: Entei). 2 sinh vật có một số điểm tương đồng với Beautifly và Solrock. Nhưng thời điểm này chưa có bất kỳ thông tin gì về Pokemon thế hệ III cả, cho nên đây có thể là sự trùng hợp ngẫu nhiên, và sinh vật được kể trong quyển sách có thể chỉ là hư cấu như các câu chuyện cổ tích dành cho trẻ em.

Unknown Pokemon

Pokemon nước huyền thoại.

Một phân cảnh mà các nhân vật chính nói về ước mơ của họ trong tương lai, Kasumi (Misty) thấy mình đang đuổi theo một “Pokemon nước Huyền Thoại” vô danh. Phần duy nhất của Pokemon này mà người xem thấy được là một chiếc vây khổng lồ, gợi nhớ đến Mega Gyarados chưa được ra mắt khi đó.

Unknown Pokemon

Sinh vật mèo có cánh.

Trong tập phim đặc biệt “Pocket Monsters – Nguồn Gốc.” (Pokemon Origins), bức tượng một sinh vật giống mèo có cánh vô danh được trưng bày trong Hội quán của Takeshi (Brock). Ngoại hình của nó gợi nhớ đến Patamon trong Digimon.

Variant Unown

Unown hình dạng mới.

Một số hình dạng kỳ lạ của Unown được tìm thấy trong máy tính của giáo sư Ookido (Professor Oak). Những hình dạng này không giống với bất kỳ hình dạng Unown chính thức nào. Mà nó là những hình dạng mới hoàn toàn, một số chúng trông giống với nhiều chữ cái Hy Lạp và Cyrillic như: Я , Ω , Σ , б , Д , ω , Π và σ.

Genesect fossil

Hóa thạch Genesect.

Mặc dù Genesect là một Pokemon máy móc, nhưng ban đầu nó là một Pokemon thời tiền sử sống cách đây 300 triệu năm. Genesect hiện đại được Team Plasma tạo ra bằng cách hồi sinh nó từ Hóa thạch và tăng cường nó về mặt khoa học, bao gồm cả việc lắp khẩu pháo trên lưng nó. Vì vậy, toàn bộ hình dạng ban đầu của Genesect vẫn là một bí ẩn.

Monster attack Alto Mare

Quái vật tấn công Đảo Nước.

Cách đây rất lâu, trên một hòn đảo có tên là đảo Nước (Alto Mare), có một đôi vợ chồng già sinh sống. Một ngày nọ, họ tìm thấy hai đứa trẻ bị thương trên bờ biển. Nhờ sự chăm sóc cẩn thận của đôi vợ chồng già, hai đứa trẻ đã khỏe mạnh nhanh chóng. Một ngày nọ, có một con quái vật xuất hiện và tấn công thành phố. Người dân trong thành phố vô cùng hoảng sợ, ngay lúc ấy… Trước mặt đôi vợ chồng già, hai đứa trẻ đã hiện thân… Chúng là những Pokemon Huyền Thoại – Latios và Latias. Chúng đã gọi bạn bè của mình đến. Chúng mang đến một nguồn năng lượng để tiêu diệt con quái vật. Năng lượng đó là một viên đá quý được gọi là Mảnh Vụn Trái Tim (Soul Dew). Hòn đảo đã trở lại hòa bình. Từ đó, Latios và Latias thường xuyên đến hòn đảo, nơi mà viên đá quý được cất giấu. Hòn đảo sau đó đã không còn bị tấn công bởi quái vật nữa…

Fossilized Drake Pokemon

Hóa thạch của Pokemon Rồng chưa được biết tên.

Fossilized Dino Pokemon

Hóa thạch của Pokemon Khủng Long chưa được biết tên.

Fossilized Bird Pokemon

Hóa thạch của Pokemon Chim chưa được biết tên.

Fossilized Fish Pokemon

Hóa thạch của Pokemon Cá chưa được biết tên.

Đây là các hóa thạch gốc chưa được xác định rõ hình dạng cấu thành nên các bộ phận của Dracozolt, Arctozolt, Dracovish, Arctovish. Cụ thể:

  • Hóa thạch Rồng tạo thành nửa dưới của Dracozolt và Dracovish. Dường như là một Pokemon hệ Rồng.
  • Hóa thạch Khủng Long tạo thành nửa dưới của Arctozolt và Arctovish. Dường như là một Pokemon hệ Băng.
  • Hóa thạch Chim tạo thành nửa trên của Dracozolt và Arctozolt. Dường như là một Pokemon hệ Điện.
  • Hóa thạch Cá tạo thành nửa trên của Dracovish và Arctovish. Dường như là một Pokemon hệ Nước.
Nameless Pokemon

3 Pokemon vô danh.

150 năm trước, một tia sét kỳ lạ đánh thẳng vào Tháp Đồng (Brass Tower) khiến cho ngọn tháp bị vùi chôn trong biển lửa 3 ngày đêm. Lugia cố gắng gọi mưa cho đến khi ngọn lửa được dập tắt. Sau đó, Lugia lập tức bay tìm nơi cư ngụ mới gọi là Quần Đảo Xoáy Nước (Whirl Islands) và ẩn mình trong đó mãi mãi. Mặc dù ngọn lửa đã được dập tắt, nhưng đã có 3 Pokemon vô danh bị chết cháy trong ngọn tháp. Thấy vậy, Ho-oh đã hồi sinh 3 con Pokemon vô danh đó lần lượt là Raikou – tượng trưng cho tia sét đánh vào tòa tháp, Entei – tượng trưng cho ngọn lửa thiêu rụi tòa tháp, và Suicune – tượng trưng cho cơn mưa dập tắt đám cháy.